VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM


I. Đặc trưng thi pháp


1.     Ước lệ

-         Ước lệ là một tín hiệu riêng của cộng đồng khi cảm nhận thực tại, làm cho sự vật và hiện tượng hiện lên đúng với chiều kích quy ước và đúng với cách hiểu của cả cộng đồng
-         Văn học nghệ thuật của mọi thời, mọi dân tộc bao giờ cũng có tính ước lệ. Có điều ước lệ trong văn học là ước lệ thẩm mỹ có tính quy ước của các nhà văn trong một thời đại, một dòng văn học nhất định
-         Trong văn học trung đại, ước lệ được nhà văn sử dụng triệt để, nghiêm túc và phổ biến. Các nhà văn bao giờ cũng cảm thụ và cảm nhận thế giới bằng nghệ thuật ước lệ
-         Ước lệ đã trở thành một đặc trưng thi pháp – hình thành từ bối cảnh lịch sử XHPK và cảm quan thẩm mỹ của tầng lớp nghệ sĩ Hán học
-         VD: Trong Truyện Kiều, ngôn từ ước lệ được sử dụng nhiều:
+       Nói tới nỗi buồn của người đẹp, nhà thơ gắn với những thềm hoa, lệ hoa, nét buồn như cúc, điệu gầy như sương,…
+       Nói đến giấc ngủ, ông nói: giấc xuân, giấc mai, giấc hòe, giấc tiên,…
+       Nói tới chén rượu ta lại có: chén xuân, chén quỳnh, chén đưa, chén mời,…

2.     Tính uyên bác

-         Văn chương trung đại mang trong mình tính bác học. Người sáng tác phải bác học và người tiếp nhận cũng rất bác học bởi đây là loại văn chương phòng khách, trà dư tửu hậu
-         Người sáng tác cũng như người tiếp nhận đều phải thông thuộc kinh sử, điển cố, điển tích; phải có vốn thi liệu, văn liệu phong phú học tập được từ những áng văn bất hủ của người xưa
-         Văn chương càng uyên bác càng có sức hấp dẫn lớn, có tính nghệ thuật cao
-         VD:
“Dẽ có có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ, khắp đòi phương”
(Nguyễn Trãi)
+       “Nương tử nghĩa khác Tào Nga, hờn không Tinh Vệ mà phải ôm mối hận gieo mình xuống nước” (Nguyễn Dữ)
+       “Ta thường nghe: Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước. Kính Đức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có?” (Trần Quốc Tuấn)

3.     Tính trang nhã

-         Văn chương của tao nhân mặc khách, nên có khuynh hướng lý tưởng hóa, “văn chương hóa”
-         Quan niệm: Hình tượng nghệ thuật càng cách điệu hoá càng đẹp
-         Con người trong văn chương phải đẹp một cách lý tưởng: tóc mây, mày liểu, mặt hoa, tay tiên, gót sen, vóc hạc,… Cử chỉ, đi đứng, ăn nói tựa như đang sống trong thế giới của nghệ thuật sân khấu
-         Tạo vật thiên nhiên đi vào văn chương cũng phải thật sang quý và đẹp như mai, cúc, tùng, bách, liễu
-         Người ta quan niệm con người không hoàn thiện, hoàn mỹ bằng tạo hóa, không tài hoa bằng hóa công
-         VD:
“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
(Nguyễn Du)

“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liểu sương sa khách bước dồn”
(Bà Huyện Thanh Quan)

4.     Tính sùng cổ

-         Do quan niệm thời gian phi tuyến tính; tức luôn xoay tròn, tuần hoàn, không mất đi mà quay trở lại gốc nguồn; các nhà văn luôn có xu hướng tìm về quá khứ
-         Họ lấy quá khứ lảm chuẩn mực cho cái đẹp, lẽ phải, đạo đức. Chân lý quá khứ là chân lý có sức sáng tỏa muôn đời. Vì thế, văn chương thường lấy tiền đề là lý lẽ và kinh nghiệm của cổ nhân, của lịch sử xa xưa
-         Chính vì vậy, văn chương trung đại đầy rẫy những điển tích, điển cố
-         Các nhà văn đời sau vay mượn văn liệu, thi tứ, hình ảnh nghệ thuật của các nhà thơ, nhà văn đời trước

5.     Tính phi ngã

-         Trong XHPK, ý thức cá nhân chưa có điều kiện phát triển
-         Con người được nhìn nhận, đánh giá trên cơ sở của tầng lớp, giai cấp, dòng tộc, địa vị XH và chỉ được phân thành hai loại: quân tử và tiểu nhân
-         VD:
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”
(Phạm Ngũ Lão)
+       Nam quốc sơn hà – Lý Thường Kiệt
+       Phò giá về kinh – Trần Quang Khải
-         Tuy nhiên, nói văn học trung đại có tính phi ngã không có nghĩa là trong tác phẩm văn chương không có dấu ấn bản ngã của người nghệ sĩ. Bởi lao động nghệ thuật là một hoạt động sáng tạo; văn học chân chính không chấp nhận công thức, phi ngã
-         VD, sự sáng tạo của:
+       Nguyễn Du trong Truyện Kiều
+       Hồ Xuân Hương
+       Nguyễn Công Trứ trong Bài ca ngất ngưởng

6.     Tính quy phạm

-         Tính quy phạm là những quy định chặt chẽ trong những phạm vi giới hạn đã được định sẵn mà người sáng tác văn học buộc phải tuân theo trong quá trình sáng tác.
-         Văn chương chính thống phong kiến mang tính quy phạm từ góc độ sáng tác đến thưởng thức
-         Tính quy phạm được biểu hiện ở nhiều khía cạnh như:
+       Mục đích sáng tác là phải hướng tới việc giáo huấn đạo đức.
+       Văn dĩ tải đạo, thơ dĩ ngôn trí, văn thơ sáng tác là để giáo huấn đạo đức, văn dùng để tải đạo, thơ dùng để bộc lộ ý trí, bày tỏ lòng mình.
+       Ngôn ngữ sáng tác gồm chữ Hán và chữ Nôm nhưng chữ Hán được xem là chính thống.
-         Giới văn học hẹp, chỉ quanh quẩn trong tầng lớp trí thức Hán học tài hoa, tao nhân mặc khách

II. Thiên nhiên


1.     Thiên nhiên không tách khỏi con người như một khách thể trong văn chương

-         Người ta tìm đến với thiên nhiên và xem thiên nhiên như là một tư liệu để ngụ tình hay giáo huấn đạo dức một cách không tự giác
-         VD:
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
-         Ngược lại, văn học hiện đại tôn trọng sự sống riêng của tạo vật thiên nhiên và thiên nhiên được miêu tả như một khách thể

2.     Thiên nhiên được miêu tả dưới bút pháp đặc biệt

-         Thiên nhiên là nơi gửi gắm những tư tưởng, tình cảm hay triết lý của con người
-         VD:
“Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai”
(Mãn Giác Thiền sư)
-         Thiên nhiên trong thơ luôn là những tạo vật cao sang, tao nhã
-         VD: “Sơn thủy yên hoa tuyết nguyệt phong” (Hồ Chí Minh)
-         Đối lập thiên nhiên tao nhã với thiên nhiên phàm tục tầm thường cũng là để đối lập chính tác giả với những kẻ tiểu nhân, phàm phu đắc thế
-         VD:
“Phượng những tiếc cao diều hãy lượn
Hoa thường hay héo, cỏ thường tươi”
(Nguyễn Trãi)

3.     Do cảm thụ thiên nhiên, thơ văn thường có hai đặc tính

-         Thiên nhiên được cảm nhận và tái hiện một cách tinh vi như muốn khám phá linh hồn ẩn kín, bí mật của tạo vật:
-         VD: Xuân hiểu – Trần Nhân Tông
-         Thiên nhiên thường được phối màu thanh đạm, đường nét thanh tao; nhưng thấm chất sống ngồn ngộn tươi rói như thiên nhiên trong cuộc sống đời thường
-         VD:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
(Nguyễn Du)

III. Thời gian nghệ thuật


1.     Nhận thức về thời gian

-         Nhận thức thời gian tuyến tính một đi không trở lại
+       Vận động mau lẹ, đầy hình ảnh, đầy màu sắc và giàu sức sống
+       Thời gian của thế giới phàm tục
-         Nhận thức thời gian tuần hoàn qua sự tuần hoàn của vũ trụ
+       Thời gian chu kì, quay tròn không đi mất
+       Thời gian của cõi trời, cõi tiên, của thế giới thanh cao bất tử

2.     Thời gian nghệ thuật

-         Trong truyện cổ, thời gian tuyến tính và chu kỷ song hành, nên cốt truyện thường có mô-típ: con người từ cõi trần lên cõi tiên, rồi từ cõi tiên trở lại cõi trần
-         Trong thơ ca cổ điển, các nhà thơ cũng cấu tứ theo hai ý niệm tương tự
-         VD:
+       Hoàng Hạc lâu – Thôi Hiệu
+       Thời gian chu kỷ ngưng đọng: Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm

IV. Con người nghệ thuật


1.     Con người vũ trụ

-         Con người giao cảm, đối diện đàm tâm với tạo vật vũ trụ, có kích thước vũ trụ
+       Con người khi gặp oan khuất, chỉ có trời đất thấu hiểu: “ngửa mặt lên trời mà than” – (Nguyễn Dữ)
+       Tầm vóc con người được đo bằng chiều kích sông núi:
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu”
(Phạm Ngũ Lão)
+       Người đẹp sánh ngang với sự hoàn mỹ của vũ trụ
“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
(Nguyễn Du)
-         Con người ứng xử theo quy luật tuần hoàn của vũ trụ: gặp tai biến không lo sợ sầu não, gặp vận may không vui mừng đắc chí. Họ khoan thai, ung dung, hòa mình vào thiên nhiên, thậm chí muốn nhập hẳn vào vũ trụ
“Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)

2.     Con người đạo đức

-         Chủ đề đạo đức, khuynh hướng giáo huấn có tính phổ biến đối ới các loại tiểu thuyết, cổ tích thời trung đại:
“Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời thiết hạnh làm câu trau mình”
(Nguyễn Đình Chiểu)
-         Chức năng giáo dục của văn học được đặt lên hàng đầu, khẳng định triết lý sống:
“Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”
(Nguyễn Du)

3.     Con người phi cá nhân

-         Trong văn chương; từ ứng xử đến tâm tư; từ từ tình yêu đôi lứa đến tình yêu nước;… tất cả đều theo một chuẩn mực chung của đẳng cấp
-         Nhân vật trong truyện Nôm đều là những nhân vật sắm vai – diễn các vai trò mà XH giao cho với những nghi thức áp đặt bên ngoài
-         Con người sống đồng trục, đồng dạng về tư tưởng tình cảm, không có màu sắc cá nhân
-         Dẫn đến thủ pháp miêu tả nội tâm nhân vật giống nhau: sử dụng hành vi bên ngoài và dấu hiệu thân xác
+       Trần Hưng Đạo tức giận thì “nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”
+       Kiều Nguyệt Nga yêu Lục Vân Tiên thì họa hình mà mang theo người

4.     Con người ý thức

-         Có con người cá nhân ý thức về cái tôi của mình, đặc biệt là gia đoạn cuối thế kỷ XVIII
-         Nguyên nhân: XHPK rơi vào khủng hoảng sâu sắc, mọi chân giá trị lúc này đều bị đảo lộn hay băng hoại
-         Nhiều tác phẩm có tính phản phong xuất hiện: Cung oán ngâm khúc, Truyện Kiều
-         Một số tác giả khẳng định cái tôi: Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ
-         VD:
“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi”
(Hồ Xuân Hương)


Nhận xét