BẾP LỬA - Bằng Việt
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ...
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?...
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ...
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?...
1963
I. Tìm hiểu chung
1.
Tác giả
-
Quê ở
tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội)
-
Thuộc
thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ
(về mặt văn chương, cảm hứng)
-
Khai
thác đề tài bình dị, sâu lắng, suy tư, lắng đọng
-
Ngôn
ngữ giản dị, dần gũi, đời thường
-
Hiện
là Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội
2.
Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác
-
1963,
khi tác giả đang học ở nước ngoài
-
Bối cảnh
đất nước: Giữa cuộc kháng chiến chống Mĩ
-
Thể loại:
thơ trữ tình
-
Thể
thơ: thơ 8 chữ
-
Đề tài:
Ca ngợi tình cảm gia đình và tình yêu quê hương, đất nước
-
In
trong tập Hương cây – Bếp lửa (1968)
b. Bố cục
-
1. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc
-
2. Những hồi tưởng về bà và bếp lửa
-
3. Suy nghĩ về bà
-
4. Lời khắc ghi tình cảm của cháu với bà và
với quê hương đất nước
II. Tìm hiểu văn bản
1. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc
-
Bếp lửa chờn vờn sương sớm: hình ảnh vừa
thực vừa hư, thấp thoáng mờ ảo
-
Bếp lửa ấp iu nồng đượm: gợi sự nâng niu,
chăm chút che chở ấm áp cho tình cảm yêu thương
-
Cháu thương bà…: hình ảnh người bà vất vả
tảo tần “biết mấy nắng mưa’ chợt sáng bừng trong kí ức
→ Từ hình ảnh bếp lửa gợi lên trong hồi tưởng,
những kỉ niệm về bà và về bếp lửa ùa về đầy ắp những trang thơ
2. Những hồi tưởng về bà và bếp lửa
a.
Thời thơ ấu (lên 4 tuổi)
-
Nghệ thuật điệp từ “khói”, thành ngữ “khô
rạc ngựa gầy” nhấn mạnh ấn tượng
-
Bếp lửa chỉ toàn khói, lửa gầy guộc mong
manh không ra hình, cái đói khốn khổ, kéo dài như vô tận, nhớ lại mà nỗi xót
xa, xúc động vẫn dâng trào, rưng rưng (“sống mũi còn cay” – hình ảnh đa nghĩa)
→ Tuổi ấu thơ nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn.
Có bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945. Bà tần tảo rau cháo đắp đổi qua ngày
cho gia đình vượt qua đận gieo neo → BÀ DUY TRÌ SỰ SỐNG
b. Thời niên thiếu
-
Bà thành trụ cột gia đình, thay các
con nuôi cháu
+ Bà
khó nhọc, tảo tần: câu thơ gợi hình ảnh bà với bao nhiêu công việc “ở cùng bà”,
“bảo cháu nghe”, “dạy cháu làm”, “chăm cháu học”, “nhóm bếp lửa”,…
+ Gian
nhà của hai bà cháu vắng vẻ, neo đơn. Hồi ức như còn vọng lại tiếng tu hú khắc
khoải gần xa, ngóng trông chờ đợi
→ Tiếng tu hú: Nghệ thuật gợi tả, liên tưởng không
gian, tâm trạng
-
Bà thành hậu phương vững chắc của tiền
tuyến lớn
+ Khó
khăn chồng chất: Giặc tới đốt làng, nhà cháy
+ Bà
và xóm làng vẫn âm thầm bền bỉ tạo dựng cuộc sống
+ Bày
dạy cháu kiên cường chịu đựng, cho người nơi tiền tuyến được yên lòng
→ Bà là người phụ nữ bình thường nhưng không
chỉ gánh vác trách nhiệm gia đình mà còn làm tốt vai trò của 1 công dân đối với
Tổ quốc
3. Suy nghĩ về bà
-
Cả cuộc đời của bà là để nhóm lửa: “mấy chục
năm rồi…thói quen dậy sớm” (hình ảnh khái quát, ẩn dụ)
-
“Bếp lửa bà nhen” → ngọn lửa của TÌNH YÊU;
ngọn lửa của NIỀM TIN (hình ảnh biểu tượng)
→ Bà là người nhen nhóm tình yêu, ý chí,
niềm tin vào tương lai, hạnh phúc cho con cháu và mọi người
-
Bà đã nhen nhóm những ngọn lửa của
+ Niềm
yêu thương mộc mạc, chân chất (khoai sắn ngọt bùi)
+ Sự
đùm bọc sẻ chia, tình làng nghĩa xóm (sẻ chung vui)
+ Hạnh
phúc diệu kì của tuổi thơ (tâm tình tuổi nhỏ)
-
Niềm xúc đỗng trong cháu bừng cháy, trào dâng,
kính cẩn “Ôi kì lạ và thiêng liêng – Bếp lửa!” (Nghệ thuật biểu cảm)
→ Câu thơ kết lại một giai đoạn trong hồi ức
4. Lời khắc ghi tình cảm của cháu với bà và với quê hương đất nước
-
Cháu đã lớn, đi xa tận bốn phương trời (điệp
từ “trăm” gợi mở thế giới rộng lớn)
-
Bà vẫn ở lại quê hương, bên bếp lửa ngày nào.
Nhưng cũng chính vì thế mà cháu luôn nhớ về bà và bếp lửa
-
Câu hỏi tu từ cuối bài khẳng định, nhấn mạnh
hình ảnh bếp lửa, cũng là hình ảnh của bà
→ Truớc kia, bà đã nhóm lên ngọn lửa tình yêu gia đình,
quê hương, Tổ quốc cho cháu thì giờ đây bà là nơi neo đậu những tình cảm giản dị
mà lớn lao không thể nào quên. Hình ảnh thơ mang tính biểu tượng, mang hàm ý sâu
sắc
III. Tổng kết
-
Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã
trưởng thành, bài thơ Bếp lửa gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và
tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người
cháu đối với bà và cũng là với gia đình, quê hương, đất nước
-
Bài thơ đã kết hợp nhuẩn nhuyễn giữa biểu
cảm với miêu tảm, tự sự và bình luận. Thành công của bài thơ còn nằm ở sự sáng
tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điển tựa khơi gợi mọi
kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu
IV. Nhận định
1. Về
bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, có ý kiến cho rằng: “Bài thơ chứa
đựng một triết lí thầm kín: những gì là thân thiết nhất của tuổi
thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trong suốt hành
trình dài rộng của cuộc đời " (Nguyễn Trọng Hoàn, Đọc-Hiểu văn bản
Ngữ Văn 9)
2. Bếp
lửa là lời tâm tình của đứa cháu hiếu thảo đang ở nơi xa gửi về người bà thân
yêu nơi quê nhà. Lời tâm tình được dệt bằng biết bao kỷ niệm tuổi thơ, mỗi kỉ
niệm được bao bọc trong một nỗi nhớ thương vừa dâng trào vừa sâu lắng. Cả bài
thơ là một dòng tâm trạng, một dòng hồi ức. Mặc dù tác giả đã cố ý sắp xếp theo
một trật tự thời gian nhưng toàn bài vẫn là một dòng chảy xáo động. Những
thương nhớ cứ xô đẩy trật tự sắp đặt, cảm xúc cứ giành lấy quyền dẫn dắt ý tứ.
Cho nên các khổ thơ, đoạn thơ ngắn dài không đều.Bài thơ gồm có hai giọng-giọng
kể lể nắm vai trò tổ chức chung đối với toàn bài, và giọng cảm thương thấm đượm
vào mỗi một kỷ niệm, một đoạn thơ. Nhưng đọc toàn bài, thấy giọng cảm thương,
nhớ nhung da diết cứ muốn trào dâng, lấn át tất cả. Mạch tự sự mờ đi, lẩn mình
vào mạch cảm xúc. (Chu Văn Sơn, Giảng văn văn học Việt Nam hiện đại).
3. Trong
bài phê bình tập thơ đầu tay của bằng Việt, nhà thơ Lê Đình Kỵ đã nhận xét : “
Một tâm hồn đầy suy nghĩ, rung động tinh tế, một chủ nghĩa trữ tình xao động, bồi
hồi, khi đậm đà, duyên dáng, khi âm vang, sâu thẳm.”
4. Nhà
phê bình văn học Trịnh Thanh Sơn đã khái quát: “ Chất suy tưởng vốn là điểm mạnh
trong thơ Bằng Việt và góp phần làm nên thi pháp và phong cách độc đáo.”
5. Nhà
thơ Phạm Khải nhận xét một cách đầy hình ảnh : “Vào những năm đầu thập kỷ 60, Bằng
Việt xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam như một ánh đèn neon kỳ ảo, tỏa ánh sáng
trí tuệ, sự mới mẻ của tuổi xuân và cái dịu dàng của hồn thơ anh. Với những câu
thơ xúc cảm tinh tế, chữ nghĩa lóng lánh, đọc giả ấn tượng về anh như một nhà
thơ trẻ lịch lãm, hào hoa.”
6. Tác
giả Trần Quang Quý trong bài viết Bằng Việt – nhiệt năng tỏa sáng từ bếp lửa
trên báo người Hà Nội đã nhận xét: “ Chất thơ hào hoa mà đằm thắm, tinh tế mà hồn
nhiên, hào sảng mà trẻ trung, tươi mới và gợi cảm, ấm ám và trí tuệ.”
7. Nhà
nghiên cứu văn học Thiếu Mai khẳng định: “ Điểm dễ nhận thấy qua mấy tập thơ của
Bằng Việt là tấm lòng chung thủy, trung hậu của anh đối với con người, với đất
nước.”
8. Nếu
như nhà thơ, nhà phê bình văn học Vũ Quần Phương cảm thấy: “Giọng thơ Bằng Việt
thường êm dịu cất lên từ một lời tâm sự.” thì tác giả Hồng Thọ thì so sánh : “
Thơ Bằng Việt như một khúc nhạc trầm tư và sâu lắng.”
9. Giáo
sư Nguyễn Vân Nam cho rằng: “ Nghĩ về đất nước mình sinh ra và lớn lên, anh
luôn có những vần thơ ấm áp, tin yêu.”
10. Nhà văn Hồng Thọ nhận xét rất tinh tế: “ Với
cách nhìn cuộc sống bằng con mắt “thấm đượm tình yêu” , thơ anh đã nói lên được
điều sâu nặng, đầy âm vang của đất nước, của con người dân tộc.”
Nhận xét
Đăng nhận xét