BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH - Phạm Tiến Duật
Không có kính không phải vì xe
không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
1969
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
-
Quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ
-
Là gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà
thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước
-
Thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ qua hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên
tuyến đường Trường Sơn
-
Giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên,
tinh nghịch mà sâu sắc
-
2012, nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn
học nghệ thuật
2. Tác phẩm
a.
Hoàn cảnh sáng tác
-
1969, khi tác giả còn đang hoạt động trên
chiến trường Trường Sơn
-
Giải Nhất cuộc thi thơ trên báo Văn nghệ
-
Được đưa vào tập thơ “Vầng trăng qua lửa”
xuất bản năm 1970
b. Bố cục
-
1. Hiện thực chiến tranh khốc liệt và tư
thế người lính
-
2. Những cảm nhận của người lính trên chiếc
xe không kính
-
3. Những khó khăn, gian khổ dọc đường hành
quân và tinh thần lạc quan của người chiến sĩ
-
4. Tình đồng chí, đồng đội trong chiến
tranh
-
5. Hiện thực chiến tranh ngày càng khốc liệt
và sự quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do, hạnh phúc
c.
Ý nghĩa nhan đề
-
Làm nổi bật hình ảnh của toàn bài: những
chiếc xe không kính
-
Thể hiện chất thơ của hiện thực chiến
tranh, của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung vượt lên trên mọi thiếu thốn
và hiểm nguy
II. Tìm hiểu văn bản
1. Hiện thực chiến tranh và tư thế người lính
-
Chiến tranh khốc liệt làm sắt thép cũng
không còn nguyên vẹn
+ Điệp
từ “không” nhấn mạnh sự mất mát, cách nói khẩu ngữ, nhịp thơ ngắn, trúc trắc gần
với văn xuôi nhấn mạnh thêm hiện thực trần trụi
→ Những chiếc xe vẫn chạy, biểu tượng của sự sinh tồn,
sức sống vượt lên trên cái chết
-
Nổi bật lên là tư thái ung dung của người
lính
+ Điệp
từ “nhìn” lặp lại 3 lần (đối với điệp từ “không” ở câu 1) khiến không gian trở
nên rộng mở, thoáng đạt và đưa đôi mắt người lên làm chủ
2. Cảm giác của người lính trên chiếc xe không kính
-
Mắt rát bỏng (mắt đắng), câu thơ nhẹ đi bớt
bởi từ “xoa”
-
Trên đường ra trận xe chạy qua những khúc
đường khác nhau: đường thẳng (chạy thẳng vào tim), đường dốc (thấy sao trời),
khúc cua/ngoặt (đột ngột cánh chim, sa, ùa vào buồng lái)
-
Thể hiện sự hài hòa và thân thiện giữa người
lính với thiên nhiên
-
Con đường tiến ra mặt trận là con đường từ
trái tim người lính
3. Những khó khăn, gian khổ dọc đường hành quân và tinh thần lạc quan của
người chiến sĩ
-
Trên chiếc xa không kính, người linh1
không chỉ phải chịu đựng mưa bom bão đạn mà còn chịu sự khắc nghiệt của thiên
nhiên
+
Mùa nắng: Bụi phun…người già
+
Mùa mưa: Mưa tuôn mưa xối…
-
Tất cả chỉ là chuyện nhỏ, cách dùng từ
mang tính khẩu ngữ, sự tếu táo đùa cợt khó khăn đã thể hiện tinh thần lạc quan,
sự trẻ trung của người lính (ừ thì, phì phèo, cười ha ha, mau khô thôi)
→ Chất ngang tàng, trẻ trung, hồn nhiên
→ Bài thơ có chất men say lãng mạn
è Sức
sống tuổi trẻ kì diệu vượt lên trên gian khổ, cái chết, sự hủy diệt của chiến
tranh
4. Tình đồng chí, đồng đội trong chiến tranh
-
Chiến tranh khốc liệt: “từ trong bom rơi,
về họp thành tiểu đội” (câu thơ gợi sự mất mát, hi sinh)
→ Tình đồng đội càng trở nên thiêng liêng, gắn bó
-
Trên con đường ra trận, những người lính
cùng chung lý tưởng càng đi càng gặp nhiều bè bạn. Chiếc xe không kính trở
thành phương tiện gắn kết tình đồng chí, đồng đội “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ
rồi”
-
“Bếp Hoàng Cầm…dựng giữa trời”: gợi tư thế
hiên ngang của người lính
-
Trên con đường ra trận, tình cờ gặp nhau,
cùng ăn bữa cơm dã chiến
→ Họ trở thành anh em thân thiết trong gia đình chiến
sĩ “chung bát đũa”
-
Những chiếc xe lại nối nhau tiến về mặt trời.
Những người lính thay nhau người nghĩ người lái.
-
Cảm giác thú vị, “chông chênh” khi nằm
võng trên xe đã nói lên tâm hồn phóng khoáng, lãng mạn của các anh
-
“Trời xanh thêm”: hình ảnh ẩn dụ, thể hiện
tương lai hi vọng đang mở ra phía trước,
è Đoạn
thơ khắc họa vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội và vẻ đẹp lý tưởng của người
lính
5. Ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
-
Cuộc chiến ngày càng ác liệt, hi sinh mất
mát là điều không thể tránh. Những chiếc xe phải chịu vô số thương tích: không
kính, không đèn, không mui, điều duy nhất “có” lại là những vết xước trên mui
(Nghệ thuật liệt kê tăng tiến)
-
Tất cả không ngăn được bước tiến quân của
người lính. Những chiếc xe vẫn chạy, bởi trên đó có những người lính với ý chí
mạnh mẽ
-
“Vì miền Nam phía trước” đề giành độc lập,
tự do
→ Mục tiêu, lý tưởng của người lính cũng như của cả dân
tộc
-
Không chỉ có ý chí, người lính còn có tình
yêu nước thiết tha
→ Đó cũng là tình cảm chung của toàn dân tộc
→ Người lính mang lý tưởng, quyết tâm của cả
dân tộc và thời đại
è “Trái tim” là nhãn tự của bài thơ
III. Tổng kết
-
Qua hình ảnh độc đáo: những
chiếc xe không kính, bài thơ khắc họa nổi bật hình ảnh người lính
lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mĩ, với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc
quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền
Nam
-
Tác giả đã đưa vào bài thơ chất liệu hiện
thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường, ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính
khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn
IV. Nhận định
1. Nói
cho chính xác, thơ Phạm Tiến Duật là kết tinh vẻ đẹp của thực tế cuộc sống, sự
hàm súc và đột khởi của trí tuệ và sự chân thành, lắng sâu của tình cảm.
2. “Phạm
Tiến Duật đã làm cho người coi kho bớt cô đơn, làm cho người lính suốt ngày chỉ
nghe thấy tiếng mưa rừng ấm lòng trở lại. Phạm Tiến Duật đã nói thay thế hệ
chúng tôi. Nói thay những người lính lái xe và các cô thanh niên xung
phong. Nói thay cho những niềm vui, hy vọng lẫn những gian lao, khổ hạnh nơi
chiến trường.” (Nhà văn Nguyễn Văn Thọ)
3. Thơ
ông là một Trường Sơn thu nhỏ, với những anh bộ đội lái xe quả cảm và vui tính.
4. Nhưng
Phạm Tiến Duật chỉ có một đề tài duy nhất, trong chiến tranh và sau chiến
tranh. Sau này nữa, lúc chết cũng thế, chỉ có một đề tài là viết về sự thiếu hụt.
Tiểu đội xe không kính là viết về cái sự thiếu đủ mọi thứ trên đời này.
5. Người
ta cùng nhận ra đặc tính ngang tàng, coi thường hiểm nguy của cánh lái xe qua
Tiểu đội xe không kính.
6. Phía
trước, nơi tiền tuyến, có Phạm Tiến Duật đã đốt lên một ngọn lửa, thắp sáng
hình ảnh Một con đường, động viên hàng vạn vạn binh sĩ nơi mặt trận, không ngại
hy sinh gian khổ, làm nên biết bao chiến công suốt trong cuộc chiến khốc liệt.
7. Phạm
Tiến Duật là một nhà thơ lớn, là một “Con đường của nền thi ca gắn liền với
cách mạng”.
8. Thơ
Phạm Tiến Duật phản ánh đầy đủ yêu cầu của quần chúng và tình hình văn nghệ ở một
đất nước đang trong thời chiến.
9. Ngôn
ngữ thơ ông là ngôn ngữ đời thường giản dị, tự nhiên. Ta bắt gặp ngay cái gồ ghề
mộc mạc, thô ráp của từ ngữ:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ mất đi rồi.”
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ mất đi rồi.”
10. “Bài
thơ về tiểu đội xe không kính” chính là một trong những minh chứng tiêu biểu
cho nét tinh nghịch, cũng như tinh thần bất khuất, hiêng ngang hào hùng của người
chiến sĩ.
Nhận xét
Đăng nhận xét