KHÚC HÁT RU NHỮNG EM BÉ LỚN TRÊN LƯNG MẸ - Nguyễn Khoa Điềm
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi,
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ.
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội,
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng.
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi,
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối,
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời:
- Ngủ ngoan a kay ơi, ngủ ngoan a kay hỡi,
Mẹ thương a kay, mẹ thương bộ đội
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần,
Mai sau con lớn vung chày lún sân...
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi,
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ.
Mẹ đang trỉa bắp trên núi Ka–lưi
Lưng núi thì to, mà lưng mẹ nhỏ,
Em ngủ ngoan em, đừng làm mẹ mỏi.
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi,
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.
- Ngủ ngoan a kay ơi, ngủ ngoan a kay hỡi,
Mẹ thương a kay, mẹ thương làng đói.
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka–lưi...
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi,
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ.
Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng.
Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông,
Mẹ địu em đi để dành trận cuối.
Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường,
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.
- Ngủ ngoan a kay ơi, ngủ ngoan a kay hỡi,
Mẹ thương a kay, mẹ thương đất nước.
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ,
Mai sau con lớn làm người Tự Do...
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ.
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội,
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng.
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi,
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối,
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời:
- Ngủ ngoan a kay ơi, ngủ ngoan a kay hỡi,
Mẹ thương a kay, mẹ thương bộ đội
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần,
Mai sau con lớn vung chày lún sân...
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi,
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ.
Mẹ đang trỉa bắp trên núi Ka–lưi
Lưng núi thì to, mà lưng mẹ nhỏ,
Em ngủ ngoan em, đừng làm mẹ mỏi.
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi,
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.
- Ngủ ngoan a kay ơi, ngủ ngoan a kay hỡi,
Mẹ thương a kay, mẹ thương làng đói.
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka–lưi...
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi,
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ.
Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng.
Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông,
Mẹ địu em đi để dành trận cuối.
Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường,
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.
- Ngủ ngoan a kay ơi, ngủ ngoan a kay hỡi,
Mẹ thương a kay, mẹ thương đất nước.
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ,
Mai sau con lớn làm người Tự Do...
25-3-1971
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
-
Sinh năm 1943 tại thôn Ưu Điềm, xã Phong
Hòa, huyện Phong Điền, Thừa Thiên – Huế
-
Thuộc thế hệ trưởng thành trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ
-
Bộ trưởng Bộ Văn hóa- Thông tin
-
Các tác phẩm:
+ Mặt
đường khát vọng (Trường ca)
+ Đất và khát vọng
+ Cửa
thép
2. Tác phẩm
-
Năm 1971 sáng tác
-
Trong tập thơ “Đất và khát vọng”
-
Khi đang ở chiến khu miền Tây Thừa Thiên
-
Thế thơ: Chủ yếu là 8 chữ
-
Bố cục: 3 khúc ru gồm lời ru của nhà thơ
và lời ru của mẹ
II. Tìm hiểu văn bản
1. Khúc ru thứ nhất
-
Công việc vất vả, người mẹ phải địu con
nên càng vất vả hơn
-
Giấc ngủ của “em cu Tai” cũng khổ cực, vất
vả theo công việc của mẹ
→ Ước mơ của người mẹ giản dị và cao đẹp
2. Khúc ru thứ hai
-
Hình ảnh người mẹ đang tỉa bắp trên núi
Ka-lưi đối lập làm nổi bật sự khó khăn, gian khổ trong lao động sản xuất của
người mẹ
-
Hình ảnh ẩn dụ: Con là mặt trời của mẹ, là
niềm hạnh phúc ấm áp sưởi ấm niềm tin, nghị lực của mẹ trong cuộc sống
→ Hình ảnh người mẹ vượt lên gian khổ, tin
tưởng và hi vọng vào con
-
Người mẹ mơ được mùa → cuộc sống ấm no
-
Mong con khôn lớn, có đủ sức khỏe để đảm
đương, gánh vác những công việc nặng nhọc, khó khăn
→ Mẹ mong những điều tốt đẹp cho con, cho dân làng
3. Khúc ru thứ ba
-
Công
việc của mẹ là công việc của người chiến sĩ trực tiếp phục vụ trên tiền tuyến,
trực tiếp chiến đấu
→ Hình ảnh người mẹ - người chiến sĩ dũng cảm, gan
dạ, sẵn sàng ra trận
-
Đất nước đang bị kẻ thù chia cắt
-
Mơ thấy Bác Hồ là mơ về độc lập, tự do, mơ
đến tương lai hạnh phúc
-
Mơ con khôn lớn được trở thành người dân của
nước Việt Nam thống nhất, độc lập, tự do
→ Ước mơ của mẹ thật cảm động, cao cả và
thiêng liêng
III. Tổng kết
1. Nghệ thuật
-
Điệp khúc, giọng điệu ngọt ngào, trìu mến
-
Hình ảnh ẩn dụ, độc lập
2. Nội dung
-
Ca ngợi người mẹ dân tộc Tà-ôi – người mẹ
Việt Nam, anh hùng trong kháng chiến chống Mĩ
-
Tình yêu thương con gắn liền với tình yêu
nước, tinh thần chiến đấu chống Mĩ của người mẹ
→ Gia đình và đất nước
IV.
Nhận định
1. “Tình
mẫu tử thì có thể nói mãi không hết. Nguyễn Khoa Điềm đã cố gắng nói ít nhưng lại
để ta thấy hết được cái chất của tình mẹ ấy: thiết tha, đằm thắm như mọi tình mẹ
con truyền thống Việt Nam, nhưng lại có cái cao cả rộng lớn của thời đại cách mạng.
Cách diễn đạt có nhiều mới mẻ: anh ví con là mặt trời của mẹ, nhưng là mặt trời
thật gần, nằm ngay trên lưng mẹ. Cây bắp sống được là nhờ có mặt trời, mẹ sống
được qua mọi cực nhọc của cuộc đời này cũng là nhờ có con. Mà con đối với mẹ
còn hơn cả mặt trời đối với cây cối, vì mặt trời còn cao chứ con thì ngay trên
lưng mẹ. Ý thơ sâu sắc vậy nhưng vẫn bám chắc vào các chi tiết thực. Nó gây được
ấn tượng mạnh vì được chuẩn bị từ câu thơ trên: “Mặt trời của bắp thì nàm trên
đồi”. Tác giả tung hứng chi tiết, hình ảnh rất tài: Ý trên gợi ý dưới, câu dưới
dọi lên câu trên, đoạn sau đoạn trước đan cài chặt chẽ. Đây là bài thơ mà sự kết
cấu của nó đã trở thành nội dung. Vẫn ý thơ này nhưng thiếu những thủ pháp ấy,
hương sắc sẽ nhạt đi nhiều.” (Vũ Quần Phương, Thơ với lời bình, NXB Giáo dục,
1988)
2. “Nhan đề là câu thơ hay nhất của bài thơ. Những
em bé lớn trên lưng mẹ. Người mẹ trở nên vĩ đại như trái đất và đứa con thì thần
kỳ như Phù Đổng. Hình ảnh phi lí nhưng đã thâu tóm thấu lí nhất nội dung bài
thơ.” (Vũ Quần Phương, Về một khúc hát ru)
3. “Khúc
hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của nhà thơ trẻ miền Nam Nguyễn Khoa Điềm
là một bài thơ hay. Cả bài thơ là một khúc ca giàu nhạc điệu dân tộc. Bài thơ
chỉ có ba mươi tư câu chia làm ba đoạn nhưng nó đã vẽ nên một hình ảnh sinh động
chân thật. Đó là bà mẹ người dân tộc Pa-kô căm tù giặc Mĩ, có tình cảm cách mạng
sâu sắc, vừa địu con vừa làm đủ mọi việc: giã gạo, tỉa bắp, chuyển lán, trực tiếp
chiến đấu.” (Thái Duy, Một khúc hát ru xúc động, Báo văn nghệ, số 437, ngày
23/2/1972)
4. “Từ
hình tượng người mẹ Tà - ôi cụ thể, Nguyễn Khoa Điềm đã giúp người đọc cảm nhận
được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam trong những năm đánh Mỹ. Đó là những
người mẹ gian khổ trong lao động, nhưng tấm lòng thương con, ước mơ và khát vọng
về một ngày mai tươi sáng vẫn không bao giờ tắt. Cao quý hơn, từ người mẹ nghèo
nơi xứ sở miền Tây của một tỉnh miền Trung đất nước, nhà thơ đã thắp sáng lên
trong trái tim mỗi người về những người mẹ ân tình, yêu lao động, lạc quan
trong cuộc đời và sẵn sàng hiến dâng tất cả cho đất nước được hòa bình, thống
nhất.” (Lê Thành Văn)
5. “Sau
cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước, Tổ quốc ta, nhân dân ta đã xây dựng biết
bao tượng đài để ghi nhớ công ơn và ngợi ca những người mẹ Việt Nam anh hùng. Với
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng đã xây
dựng thành công một tượng đài bằng ngôn ngữ về những người mẹ miền núi vô
danh.”
6. “Lúc
ở nhà giã gạo nuôi quân, lúc lên núi tỉa bắp lấy lương thực chống đói cho dân
làng, trong chiến dịch lớn thì trực tiếp tham gia trận cuối, mọi công việc vất
vả mẹ làm đều vì việc chung, vì làng xóm, vì sự nghiệp cách mạng. Tình yêu quê
hương, đất nước, tinh thần kháng chiến chống Mỹ là động lực là sức mạnh để mẹ
có thể vượt lên mọi nhiệm vụ gian nan.”
7. “Trong
lời ru của bà mẹ Tà-ôi (Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ - Nguyễn Khoa
Điềm) không chỉ có tình yêu thương con tha thiết mà còn có cả tình cảm và nhận
thức về hành động cách mạng của người dân yêu nước”. ( Đề văn lớp 9 )
8. “Lời
ru của mẹ nuôi con ngày một lớn khôn đó là những chiến công thầm lặng mẹ
đã cống hiến cho dân tộc, góp phần biến giấc mơ của Akay thành hiện thực. Những
việc làm thầm lặng hằng ngày của mẹ tuy giản dị song vô cùng có ý nghĩa,
là biểu hiện tấm lòng của hậu phương dành cho tiền tuyến. Chính những điều đó
đã nâng tầm vóc hình tượng người mẹ trở
thành một biểu tượng cao đẹp.” (ThS. Hồ Thúy Ngọc)
9. “Cái
nhìn đặc sắc của bài thơ là tác giả chỉ tập trung vào một hình tượng. Tình, ý,
cảnh đều hội tụ vào hình tượng đó, từ thấp lên cao. Ý thơ song song nhau ở cả
ba đoạn thơ nhưng có sự phát triển rộng xa dần. Các câu thơ nối nhau thành từng
cặp ý quấn quýt nhau, liên hệ đối chiếu với nhau, khi thì ở ngay trong một câu,
khi thì ở câu trên câu dưới.” (Vũ Quần Phương, Thơ với lời bình, NXB Giáo dục,
1988)
10. “Không
có con mắt quan sát tinh tế, làm gì Nguyễn Khoa Điềm có những vần thơ độc đáo ấy!”
(Thái Duy, Một khúc hát ru xúc động, Báo văn nghệ, số 437, ngày 23/2/1972)
Nhận xét
Đăng nhận xét